Lý thuyết toàn cảnh

Ôm lấy những tổn thương

Vấn đề với những tổn thương tâm lý không chỉ ở mức độ đau đớn và ám ảnh mà nó gây ra. Không như các vết thương về thể chất (dù là ngoài da hay nội tạng), vết thương tâm lý không có cách nào nhìn thấy được. Điều này dẫn đến hai hệ quả.

Người bị thương là người duy nhất có thể cảm thấy vết thương, sự tồn tại hay mức độ của nó. Đây là vết thương cô độc nhất, không dễ tìm được sự thông cảm, chấp nhận hay chia sẻ. Không được hưởng những quyền lợi (sự nghỉ ngơi hay bù đắp) tương tự như với những vết thương thể chất hữu hình và có thể nhận biết, đánh giá được mức độ. Ở Mỹ có rất nhiều cuộc tranh luận nổ ra về chính sách dành cho các cựu chiến binh. Nếu những thương tật về cơ thể có thể được trao huân chương thì một cách công bằng, những người gặp phải thương tổn về tâm lý cũng xứng đáng nhận được những đãi ngộ tương xứng. Những luận điểm được đưa ra để phản bác thiên kiến về lòng dũng cảm. Tại sao những thương tật trên cơ thể được coi như minh chứng cho lòng dũng cảm, còn vết thương tâm lý vĩnh viễn lại bị coi như sự yếu đuối? Và câu hỏi quan trọng tiếp theo, cứ coi như những thương tổn tâm lý này cần có chính sách tương ứng dành cho nó, nhưng làm sao xây dựng được một chính sách hợp lý và phù hợp, bởi vì: cơ sở nào để kiểm tra, đánh giá, phân loại và phân cấp mức độ cho những vết thương vô hình này?

Điều quan trọng nữa là, một khi vết thương tâm lý đã hình thành, nếu không được chữa trị kịp thời và đúng cách (mà trong lúc thương đau bối rối lại còn không nhìn thấy được vết thương thì Chúa mới biết chữa trị đúng cách là thế nào), theo thời gian, vết thương này sẽ đi sâu hơn vào chúng ta, vào vô thức, tiềm thức, thậm chí là vận động và các phản ứng của cơ thể. Đau đớn và ám ảnh là phần đáng sợ, nhưng không phải phần đáng sợ duy nhất. Đó có thể chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Tôi không nghĩ rằng ai đó đã hiểu chút ít về thế giới nội tâm phức tạp của con người (hoặc phân tâm học) lại có thể tự tin nói rằng mình nhận thức và kiểm soát được tất cả mọi phần trong mình. Oái oăm thêm nữa, lí trí luôn có cách để đánh lừa chính chúng ta. Lí trí càng khôn ngoan thì sự đánh lừa càng tinh vi. Nhiều khi ra tưởng rằng quyết định nào đó mình đưa ra đến từ những suy nghĩ rất thấu đáo, nhưng biết đâu được, đó có thể là nỗi sợ hãi, trốn chạy, phòng vệ, phủ nhận, chống đối… sâu xa cắm rễ từ những vết thương chưa lành. Nói cách khác, những vết thương tâm lý lâu ngày – ở một mức độ rất sâu, làm giảm mức độ nhận thức và khả năng kiểm soát bản thân của chúng ta.

Photo by Nikko Macaspac on Unsplash

Nghiêm trọng là vậy, nhưng (hay chính vì thế) không phải vết thương tâm lý nào cũng có thể chữa lành hoàn toàn. Có rất nhiều người phải trải qua sự bạo hành, hành hạ khủng khiếp mà sự hồi phục về tinh thần gần như là bất khả. Trong nhiều trường hợp, muốn người bị thương phải theo đuổi sự chữa lành cũng là một sự đàn áp thô bạo thậm chí tàn nhẫn, tương tự như việc muốn họ phải học được điều gì đó từ tổn thương của mình, vượt qua nó, phát triển từ đó. Không phải vết thương nào cũng có lí do của nó, không phải vết thương nào cũng đi đến mục đích hay ý nghĩa nào đó.

Vậy có thể làm gì với những vết thương này? Trước hết và luôn luôn, nhận thức và chấp nhận sự tồn tại của nó, đơn thuần – không đổ lỗi cũng không đổ nghĩa. Tôi sẽ đẩy ý này đi xa hơn một chút. Tổn thương là đặc thù của con người (tôi không có đủ bằng chứng để kết luận con người là sinh vật duy nhất có khả năng tổn thương về tâm lý, nhưng chắc chắn đây là đặc trưng của con người). Con người là tạo vật mong manh, yếu đuối và hữu hạn về cả thể chất và tâm lý. Nhưng hơn thế, con người trượt giữa hữu hạn và vĩnh cửu, giữa bất toàn và hữu toàn – giữa sự yếu ớt, nhỏ bé và những nhu cầu siêu việt, những khát khao cao đẹp. Bản chất của việc chấp nhận những vết thương chính là việc chấp nhận đặc tính có khả năng bị tổn thương của mình, chấp nhận những nhu cầu hiện diện (nhưng đã bị chà đạp) của mình, chấp nhận sự bất lực trong việc tự định đoạt số phận của mình hay thay đổi những gì đã xảy ra với mình. Nói cách khác, chính là việc chấp nhận “tính chất người” của mình.

Điều này nghe có vẻ hiển thiên, nhưng không đơn giản. Đặc biệt là với những người đang trải qua các rối loạn hay hội chứng tâm lý đặc thù như trầm cảm, rối loạn lưỡng cực… Không muốn sống, sợ sống, từ chối đời sống người, coi việc phải sống như một bản án với thái độ bất mãn, là những biểu hiện và cũng là cốt lõi.

Nhưng có một sự thật là: cho dù bạn có sợ sống đến đâu, không muốn sống đến đâu, bạn cũng đang sống. Cho dù bạn sinh ra để làm gì, cho dù đời sống này có ý nghĩa hay là không, bạn vẫn đang sống. Trong khi bạn đang vật lộn với chính sự sống này, bạn cùng lúc – vẫn đang sống.

Sự sống này, tính chất người này, thật và hiện hữu như những nỗi đau của chính bạn. Ở đây, bây giờ, ngay lúc này. Không cần truy nguyên, cũng không cần mưu cầu điều gì tiếp sau. Bạn chỉ cần ở đây, chấp nhận và ôm ấp nỗi đau của chính mình. Trong cường độ và sự cô độc của nó, sự sống và đời sống người tìm đến bạn trong sự chân thật.

A Woman On A Paris Street At Evening, Lionello Balestrieri (1924)