Minh minh đức và sự học cả đời
Nói theo cách hiểu thông thường thì tôi đang trên con đường phấn đấu thành một kẻ chăm học.
Tôi đã chưa bao giờ là một đứa chăm học. Kiến thức thậm chí đã là thứ chỉ được “dán hờ vào đầu”, thi xong lại bỏ đi.
Vì tôi chưa bao giờ thấy được ý nghĩa của việc học. Truyền thống ở Việt Nam là học để làm quan, và làm quan để “cả họ được nhờ”. Cái học của Nho giáo không chỉ có ý đó, mà là Tam cương lĩnh chỉnh tề, đại ý: tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ, nhưng vào môi trường Việt Nam thì bị khúc xạ (khái niệm của Phan Ngọc) và đến thời nay thì chỉ còn cái ngọn “ấm vào thân” như vậy.
Mà tôi thì chưa bao giờ bị thôi thúc bởi danh vọng, quyền lực hay tiền bạc. Vậy nên cái học với tôi đã là vô nghĩa, và chỉ để đối phó.
Cho đến khi lần đầu tiên tôi tiếp xúc với một môi trường học hoàn toàn mới.
Trong buổi học đầu tiên môn Microeconomics (Kinh tế vi mô) trong chương trình Thạc sĩ ở Ý, người thầy của tôi dành ra một phần rất dài để giải thích về mục đích của môn học và các giả định cơ bản của nó. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy những kiến thức mình học sẽ dùng làm gì, sẽ giải quyết vấn đề nào trong cuộc sống. Một điều tưởng chừng giản đơn nhưng phương pháp giảng dạy ở Việt Nam không hề nhấn mạnh được.
Tiếp đến là những buổi học môn Statistics (Thống kê) – một trong những môn học mang tính nền tảng trong chương trình học (sau này tôi mới hiểu Toán học Thống kê được phát triển để tham vọng đưa các môn xã hội cũng trở thành khoa học), thầy giáo thường nói với chúng tôi, rằng với mỗi vấn đề, sẽ có nhiều giải pháp có thể được đưa ra, và giải pháp nào cũng sẽ có ưu – khuyết điểm của nó. Mấu chốt là tùy vào mục đích/ưu tiên của chúng ta mà chúng ta lựa chọn giải pháp nào, và song song với việc lựa chọn giải pháp đó chúng ta phải nhận định, trình bày rõ ràng hạn chế của nó.
Ý nghĩa đầu tiên của việc học đối với tôi đến như vậy, đó chính là niềm vui đơn thuần của sự biết. Học thêm là biết thêm, mà cái biết này gắn liền với những vấn đề, nhu cầu thực tế của đời sống. Đó là cách để ta hiểu cuộc sống và giải quyết những vấn đề của nó.
Nhưng khai ngộ này vẫn chưa đủ để tôi hứng thú và kết nối với việc học một cách kiên định. Thế giới đã bùng nổ sắc màu từ đó, như một bức tranh ghép hình rực rỡ. Tôi đã nghĩ bởi mọi thứ đều có liên quan đến nhau, vì vậy càng nhặt được nhiều mảnh ghép thì càng có cơ hội nhìn thấy được bức tranh tổng thể. Nhưng bức tranh quá khổng lồ, vì vậy đó là một suy nghĩ đưa đến sự bất định và cảm giác bất lực.
Việc chọn lựa ráp mảnh ghép nào trước phải có phương pháp, đó phải là mảnh ghép mang tính mấu chốt và có giá trị định hướng, sau khi đặt được nó vào đúng chỗ của nó, từ nó lại trở thành gợi ý cho mảnh ghép tiếp theo. Ẩn dụ này theo tôi là rất sát với phương pháp của tôi.
Đặc biệt trong thời đại công nghệ thông tin, nếu không ý thức được điều này sẽ chết chìm trong một bể thông tin, sách vở, kiến thức, quan điểm, tranh luận tự tìm đến mình hằng ngày, không ngóc đầu lên được để rồi lại thấy mọi thứ tối tăm có khi còn hơn lúc chưa học gì.
Sau khi có ý thức tìm ra một con đường nhất quán và bắt đầu gò mình theo con đường nhất quán đó, tôi lại tiếp tục hiểu ra: ý nghĩa của sự học không đơn giản nằm ở bản thân sự học, tức niềm vui thích tìm hiểu cái chưa biết hay niềm hân hoan của sự biết, sự mới.
Việc học chính là cơ hội để thay đổi căn cốt bản thân mình. Và từ đó, thay đổi toàn bộ cuộc sống của mình.
Từ phương Đông đến phương Tây rồi quay lại phương Đông, vụng dẫn Minh minh đức trong Tam cương lĩnh, gồm có năm mục: cách vật (tiếp cận và nhận thức sự vật), trí tri (đạt tri thức về sự vật), thành ý (làm cho ý của mình thành thực), chính tâm (làm cho tâm của mình được trung chính), tu thân (tu sửa thân mình).

Nói chính xác thì nghĩa của sự học hiện tại của tôi gói lại trong năm mục của Minh minh đức như thế.