Lý thuyết toàn cảnh

Eight of swords – khai sáng từ đôi mắt tối

“Cánh cổng của nhận thức” là cách mà Rachel Pollack – tác giả cuốn sách Seventy – eight degree of wisdom phân tích lá bài Eight of swords. Bộ ẩn phụ trong Tarot thường đại diện cho những tình huống tạm thời, dễ xảy ra trong cuộc sống thường ngày, dễ giải quyết và cũng dễ gặp lại. Tuy nhiên những tình huống này không chỉ có giá trị tức thời, mà đôi khi chúng đem đến bối cảnh để từ đó chủ thể có cơ hội học được những bài học lớn. Bài học về nhận thức chờ đợi sau cánh cổng mà tình huống của Eight of swords mở ra gắn liền với quan niệm về chiếc khăn bịt mắt xuất hiện trong lá bài.

Thuộc bộ Kiếm trong bộ ẩn phụ của Tarot, Eight of swords thường được mô tả như một tình huống không mấy tích cực. Một người phụ nữ bị trói, bị bịt mắt, đứng trong một “trận địa tám kiếm” – ngay từ hình ảnh rõ ràng cho thấy cô ta đang trải qua một trạng thái không hề dễ chịu.

Bộ Kiếm trong Tarot đại diện cho nguyên tố Khí, đại diện cho các vấn đề, đồng thời là cách tư duy, nhận thức, suy nghĩ. Nghĩa phổ biến nhất của lá bài này đó là sự bế tắc. Một người đang bị trói, bị bịt mắt, lại phải đối mặt với rất nhiều vấn đề, thì chắc chắn các lựa chọn bị hạn chế, thậm chí rơi vào cảm giác bế tắc, không thể hành động được gì. Số tám gắn với những trạng thái ổn định, đi cùng những thanh kiếm bị cắm chặt xuống đất cho thấy tình huống này có tính trì trệ, kìm hãm, mức độ cố định cao hơn những lá bài thuộc bộ ẩn phụ thông thường, không dễ gì cải thiện nếu không có tác động lớn. Có thể nói cách khác, đây là tình huống bị cầm tù.

Hãy nhìn kĩ hơn vào trận địa tám kiếm này. Bên trái cô gái là năm thanh kiếm, ta có thể liên tưởng đến lá bài Five of swords, tức là cảm xúc của cô đang bị ảnh hưởng bởi một cuộc chiến thiếu công bằng đã phân thắng bại. Mặt đất dưới chân cô ta có một mạch nước nhỏ lắt léo chảy qua tạo thành một dạng bùn lầy, tượng trưng cho sự hổ thẹn, tủi nhục – rất có thể cô là kẻ thua cuộc hoặc nạn nhân của cuộc chiến này. Lâu đài – tượng trưng cho quyền lực, sự bảo hộ, đã ở phía sau lưng và cách xa cô ta. Theo cách nào đó, công lý đã “bỏ rơi” cô. Thực tế, lá bài Tám kiếm cũng thường được coi như hệ quả của một tình huống thiếu công bằng hoặc bị áp bức, đày ải. Bên phải cô ta là hai thanh kiếm, nhắc lại tình trạng của lá bài Two of swords: lí trí của cô ta đang dựng lên một hàng rào phòng vệ và tự xoay chuyển giữa những sự lựa chọn ít ỏi mà cô ta (nghĩ mình) có vào thời điểm này.

Ngay phía trước cô ta là một thanh kiếm của ý tưởng, giải pháp, cách tư duy hoàn toàn mới – nhưng đương nhiên với tình trạng lúc này cô ta khó lòng thấy được nó. Vậy giải pháp này có thể là gì? Hãy để ý, những thanh kiếm không thực sự xiết lấy cô ấy, những sợi dây không trói quanh chân cô, trong khi những người trói cô cũng không xuất hiện xung quanh. Nói tóm lại, không có gì ngăn cản cô ấy rời đi. Cô hoàn toàn có thể tự di chuyển, tìm cách thoát khỏi trận địa kiếm này. Cô có thể lựa dùng kiếm để cắt đứt dây trói, từ đó gỡ bỏ dải khăn bịt mắt. Cô cũng có thể hét lớn để kêu gọi sự giúp đỡ của người khác. Cô có nhiều sự lựa chọn hơn mình nghĩ. Sự ràng buộc ở đây phần lớn không đến từ ngoại cảnh mà chính là cảm giác mình đang bị cầm tù.

Manh mối của lá bài này là chiếc khăn bịt mắt – nhân vật trong lá bài đang không hiểu rõ hoàn cảnh mà chính mình đang lâm vào. Một cách trực tiếp, khăn bịt mắt thể hiện sự mù quáng, nhầm lẫn, ý niệm về sự áp bức, cô lập với người khác. Cảm giác bị giam hãm về thể xác ở đây dẫn đến sự tự giam cầm về tinh thần. Cô gái đang tin rằng mình thực sự bị cầm tù và từ đó tin vào sự bất lực của chính mình.

Cũng lưu ý cách người phụ nữ trong lá bài dường như quay lưng lại với lâu đài. Có thể có một sự từ chối hệ thống hỗ trợ từ cộng đồng, và kết quả là cô cảm thấy đơn độc trong hoàn cảnh của mình. Chính vì vậy, Eight of Swords có thể cho thấy tâm lý nạn nhân. Sợ hãi, tủi nhục, bế tắc – cô gái bị cuốn vào cảm giác như mình là nạn nhân đến nỗi cô ta không nhận ra cách dễ dàng khác để thoát khỏi tình huống này.

Hình ảnh khăn bịt mắt cũng liên kết lá Eight of swords với Two of swords. Tuy nhiên nếu ở lá bài Hai kiếm, nhân vật chủ động bịt mắt mình để loại bỏ những sự xao nhãng không cần thiết từ ngoại cảnh, thì ở Tám kiếm bị đặt vào tình huống này một cách bị động, cô ta không lựa chọn bị bịt mắt như vậy.

Đi cùng với bộ kiếm, những lá bài này có thể có liên quan đến hình ảnh của vị thần Công lý (trong thần thoại Hy Lạp là Dike, thần thoại La Mã là Justitia và trong văn hóa phương Tây là Lady of Justice). Nữ thần thường được mô tả một tay cầm thanh kiếm và một tay cầm chiếc cân, đeo khăn bịt mắt, biểu trưng cho quan niệm quen thuộc “Justice is blind”: công lý nói không với thành kiến, sự chủ quan hay những ưu tiên, thiên vị. Như vậy ta thấy rõ mối liên hệ các lá bài thuộc bộ kiếm này với lá bài Justice số XI trong bộ ẩn chính. Nhân vật trong Two of swords đang muốn đưa ra một sự lựa chọn mang tính công bằng, còn người phụ nữ của Eight of Swords, cô ta là nạn nhân của sự bất công. Tình huống của lá Tám kiếm phức tạp hơn nhiều, giải pháp của nó cũng không hiển lộ để có thể lựa chọn hoặc thế này hoặc thế kia như ở Hai kiếm. Dẫu vậy, cho đến cùng, đây đều là những cuộc đấu tranh bên trong để có thể tìm ra hướng đi trong tình cảnh mình đang gặp phải.

Đi sâu hơn vào ý nghĩa của biểu tượng khăn bịt mắt, ta sẽ tìm thấy một nét nghĩa thường bị bỏ qua của Eight of Swords. “Trên bình diện tôn giáo bí truyền, mắt bịt khăn mang ý nghĩa hồi quy nội tâm, trầm tư mặc tưởng. Đôi mắt bịt kín, khép lại lòng tham cùng sự hiếu kỳ”. Đối với các nữ tu sĩ, dải khăn voan thể hiện sự kiên định tách biệt khỏi trần tục, và một cách tích cực hơn là sự nhập định và tập trung tư tưởng. Trong lễ thụ pháp của hội Tam Điểm, thành viên mới nhập hội bị bịt mắt bằng một dải khăn trần tục, việc tháo bỏ khăn tương ứng với sự tiếp nhận ánh sáng, hoàn toàn khải ngộ về tinh thần.

Điểm này có liên hệ chặt chẽ đến một khái niệm quan trọng trong Ki tô giáo gọi là “lust of the eye”, tức sự cám dỗ (dục vọng) của đôi mắt. Đây là một trong ba cám dỗ tội lỗi theo quan niệm của thánh John, được ghi lại trong Kinh thánh, phần Thư thứ nhất của Thánh John mục 2:15-17:

“Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng xuất phát từ thế gian; mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi.”

Sau này, Thánh Augustine, nhà thần học và triết học có ảnh hưởng bậc nhất trong Cơ Đốc giáo Tây phương và triết học phương Tây đã diễn giải dục vọng của đôi mắt rất khúc chiết trong tác phẩm Confession của mình. Ông cho rằng cám dỗ của đôi mắt thậm chí là một hình thức cám dỗ rối rắm và nguy hiểm hơn cả cám dỗ của cơ thể. Sự thèm khát tất cả lạc thú của xác thịt cấp cho mọi giác quan và lạc thú không chỉ làm cho những nô lệ của chúng (tức là linh hồn của con người, có thể hiểu là tinh thần) rời xa Chúa, mà còn ẩn nấp trong linh hồn – qua một số giác quan của cơ thể – một chỗ lõm đầy âu lo – dưới cái tên biết và học. Trong cơ thể, đôi mắt là giác quan đạt được sự biết mạnh nhất cho nên ngôn ngữ thiêng gọi nó là ham muốn của đôi mắt. Trong việc theo đuổi sự biết thì các giác quan khác đều khám phá sự biết bằng cách loại suy chức năng của đôi mắt, cho nên đôi mắt là thủ lĩnh trong cuộc theo đuổi này.

Như vậy đôi mắt không chỉ có lòng tham mà còn có sự hiếu kỳ, và hành động bịt mắt hay nhắm mắt có ý nghĩa như một phần của hành trình đi vào nội tâm để đi đến sự thức tỉnh về tinh thần. Tương ứng với đó, việc tháo bỏ chiếc khăn bịt mắt cũng có thể được hiểu là sự sẵn sàng để đối diện với hiện thực, với sự thật, với chân lý tối cao.

Quay lại với lá bài Eight of swords, cho dù cô không chủ động hay mưu cầu về việc bị bịt mắt, bị trói, nhưng điều này không thay đổi rằng đây là cơ hội để cô tĩnh tâm, quay vào bên trong mình, nhận định lại tình trạng của bản thân để tự gỡ bỏ những hàng rào tâm lý hoặc nhận thức đang kìm hãm mình. Sự giác ngộ này được những người Hồi giáo dòng mật tông gọi là “cách mạng ý thức”.

Một sự trùng hợp chắc chắn không phải tình cờ lặp lại trong bộ Botticelli Tarot – bộ bài nổi tiếng mang tinh thần và phong cách của thời kì Phục hưng, khi nhân vật được miêu tả trong lá Eight of swords cũng chính là nhân vật trong lá The hanged man (nguyên mẫu gốc là thánh tử đạo Sebastian trong bức tranh St. Sebastian (1473-1474)).

Và khi cuộc cách mạng bên trong này xảy ra, sức mạnh tinh thần sẽ được giải phóng. Ngay ở đây chúng ta gặp lá bài The Strength. Hãy nhớ rằng lá bài số VIII trong bộ ẩn chính là bài học cần thiết để giải quyết tình huống của các lá số Tám trong bộ ẩn phụ. Sự can đảm và sức mạnh nội tâm để giải quyết tình huống theo hướng lấy nhu thắng cương, mềm mỏng, khéo léo, sẽ giúp cô gái trong Eight of swords thoát khỏi trận địa này. Chú ý rằng cô gái đang mặc một chiếc váy màu đỏ, màu sắc tượng trưng cho nguyên tố Lửa – nguyên tố của lòng quả cảm và tinh thần sẵn sàng hành động, cho thấy trong cô đã tiềm ẩn những phẩm chất này. Chỉ cần gỡ bỏ một vài nút thắt, và tất cả sẽ được tự do.

Với tình trạng của lá Tám kiếm mang tính trì trệ, khó thay đổi nếu không có tác động lớn, tôi không cho rằng kiên nhẫn chờ đợi là giải pháp tốt cho cô gái trong lá Eight of swords. Có rất nhiều giải pháp tốt hơn dành cho cô, và hầu hết đều yêu cầu lòng can đảm để tự thay đổi tình trạng của mình. Cho dù đó là can đảm để dùng kiếm cắt dây trói, để tự lựa bước chân ra khỏi trận địa kiếm, can đảm để tự thức tỉnh mình và tìm kiếm câu trả lời bên trong, hay thậm chí nhờ cậy đến sự giúp đỡ của người khác – cũng cần rất nhiều can đảm.

Với sự thống trị của chủ nghĩa duy vật, trong bối cảnh truyền thông với vô số những hình ảnh đầy cám dỗ, lạm dụng sự kích thích thị giác đến mức trở thành một thế giới mà Guy Debord gọi là Xã hội diễn cảnh – nơi mà mối quan hệ xã hội giữa những con người đều trải qua sự trung gian của hình ảnh, câu chuyện của Eight of swords theo tôi trở nên đặc biệt có ý nghĩa. Tôi nhấn mạnh cái mà tôi gọi là khai sáng từ đôi mắt tối, để coi những tình huống Tám kiếm như một cơ hội thúc đẩy chúng ta đi tìm sự thật của thế giới bên trong và tháo những nút chặn giải phóng sức mạnh tinh thần của chính mình. Xin mượn lời của Descartes – triết gia mà tôi coi như một Hiệp sĩ của lý trí (Knight of Swords) đầy tinh thần táo bạo và khát khao chân lý đã mở đầu cho thời kì hiện đại trong tư tưởng phương Tây:

“Tôi sẽ nhắm hai mắt, bịt hai tai, tôi sẽ thu hồi giác quan và xoá bỏ khỏi tư duy tôi tất cả những hình ảnh của sự vật vật chất, – hoặc ít ra, bởi vì không thể thực hiện được như trên, tôi sẽ coi các sự vật vật chất là giả tạo và phù ảo, – như thế tôi sẽ chỉ nói năng với mình tôi, và chỉ suy niệm về nội tâm của tôi, tôi cố gắng nhận biết và làm quen với chính mình tôi nhiều hơn”.

Danh mục tham khảo

Saint Augustine. Confessions (1966), translated by Vernon J.Bourke, Ph.D, The Catholic University of America Press, Washington, D.C., chương XXXV, quyển X, tiết 55.
Benebell Wen. Holistic Tarot (2015), North Atlantic Books.
Guy Debord. Xã hội diễn cảnh (2013), NXB Tri thức
Jean Chevalier, Alain Gheebrant. Từ điển Biểu tượng Văn hóa Thế giới: Huyền thoại, Chiêm mộng, Phong tục, Cử chỉ, Dạng thể, Các hình, Màu sắc, Con số (1997), NXB Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du.
Mary K.Greer, Tarot for Your Self: A Workbook for Personal Transformation, Second Edition (2002), New Page Books.
Rachel Pollack. Seventy – eight degree of wisdom (1980), Thorsons.
Paul Fenton-Smith. Mastering the Tarot: A guide to advanced Tarot reading and practice (2000), Simon & Schuster (Australia) Pty Limited.
Kinh thánh ấn bản 2011, NXB Tôn giáo, phần Thư thứ nhất của Thánh John mục 2:15-17.
Trần Thái Đỉnh. Triết học Descartes – Ba tập in chung: Triết học Descartes, Phương pháp luận, Những suy niệm siêu hình học (2005), Hà Nội: NXB Văn học, trang 450.
Blindfold Symbolic Meanings in Tarot, link tarotteachings