Tiểu luận của tác giả James D. Carney đăng trên Journal of Aesthetic Education, nhằm mục tiêu đưa đến một mô hình phê bình nghệ thuật (tập trung vào nghệ thuật thị giác cụ thể là hội họa) tối ưu có khả năng giảm thiểu tối đa ảnh hưởng của tính chủ quan cũng như sự khác biệt về khiếu thẩm mỹ.
Dịch từ bài viết của tác giả William Schack trên Virginia Quarterly Review, trong đó tác giả bám vào phương pháp phê bình nghệ thuật của Albert C. Barnes, chỉ ra những khái niệm then chốt, phẩm tính và điểm vượt trội của phương pháp này – trong so sánh với các phương pháp phê bình nghệ thuật khác, và sau cùng không quên chỉ ra những khiếm khuyết của nó.
Thông qua các blog, trang web và phương tiện truyền thông xã hội, ngày càng có nhiều bài viết hơn bao giờ hết về nghệ thuật. Nhưng liệu chúng có bổ sung thêm những hiểu biết có ý nghĩa, hay chỉ là tiếng ồn? Đây là một vấn đề cần tranh luận.
Mở đầu cho tác phẩm nổi tiếng nhất của mình – cuốn sách Những cách thấy vào năm 1972, John Berger không chỉ đưa ra một ý tưởng mà còn là một lời mời để nhìn và biết thế giới khác: “Mối quan hệ giữa những gì chúng ta thấy và những gì chúng ta biết sẽ không bao giờ được giải quyết”, ông viết.
Sáng tỉnh dậy nghe có thứ gì xanh xao câm nín chồi lên trong lòng, đến khi ra đường mới hiểu là vì sao. Là gió mùa hanh hao và xao xác. Bão về.
Tôi đã muốn viết biết bao về những ngày vui vừa qua, nhưng khi vui nào ai muốn viết. Người ta muốn sống. Tôi ước có thể viết được về những con người dễ thương vô cùng mình đã gặp. Nhưng trong sự đối diện ấy, tôi chỉ muốn nhìn và muốn nghe.
Câu hỏi về sự thật chỉ nằm trong tư duy của con người. Phải xuất phát từ tư duy, phải ở trong tư duy – thì mới đặt ra câu hỏi về sự thật, mới cần phân biệt cái này là thật, cái kia không thật. Ngoài tư duy thì chỉ có đơn thuần tồn tại.
Về tình yêu Có một quan niệm về tình yêu đã chạm đến tôi và làm tôi suy nghĩ rất nhiều: Làm thế nào để yêu và được yêu thực sự? – Đó là hai tâm hồn phải xứng đáng với nhau. Đến giờ tôi vẫn nghĩ là cần phải xứng đáng với – về tâm hồn.
Tôi yêu những cơn mưa. Hình như là thế. Từ bao giờ, tôi không biết. Nhưng mưa cuốn tôi đi, dẫu tôi đang trong căn nhà an trú và nhất là khi tôi đang an trú. Mưa gột rửa những nỗi niềm của tôi, dù chưa thể, chẳng thể đủ sạch. Mưa luôn phá tung một kê đè nào đó để tôi được tuôn chảy.
Từ khoảng đầu năm tôi bắt đầu dồn dập mong muốn chữa lành và thanh lọc bản thân mình. Tôi có đùa năm nay là năm “nhập thất” của tôi, trùng hợp là cũng là năm dịch bệnh và giãn cách xã hội, như vậy là đủ thiên thời địa lợi nhân hòa.
Tôi vốn chưa bao giờ thích viết về tình yêu (hay bất cứ thứ tình gì khác) một cách trực tiếp. Bởi tôi cho rằng tình yêu là thứ để sống nó, trực diện nó – không phải để viết về, nói về nó.
Có lẽ cùng với đời sống ngày càng phức tạp, con người dần học được cách sống chung với những mâu thuẫn. Tôi biết những giới hạn nhưng không có nghĩa tôi chọn yên vị thay vì ròng rã tiến đến gần nó, để rồi lại quay quắt đấu tranh tìm cách vượt qua nó dẫu nỗi bất lực luôn chằm chặp ngay kề.